CƠ HỌC THIỀN ĐỊNH LỜI NÓI ĐẦU Có lẽ đây là lần đầu tiên, kỹ thuật nhập định nói riêng, bộ môn thiền định nói chung, thoát ra khỏi vỏ bọc kinh điển truyền thống đã tồn taị qua nhiều ngàn năm. Nhìn ở góc cạnh lịch sử biện chứng, thì việc này tất nhiên phải xẩy ra, vì nó không con phù hơp với xu thế thời đại nữa. Chỉ với một chiếc điện thoại thông minh phổ thông, ta có thể thực hiện những hiện tượng đươc gọi là thần thông: thần giao cách cảm ( Thelepathy mind to mind communication ), thiên lý nhãn, thiên lý nhĩ và nhiều khả năng khác nữa.
Với tập tài liệu nhỏ này, chúng tôi hy vọng sẽ giới thiệu đến quí đọc giả một lối tiếp cân khác với lộ trình qui ước, đa ngành về thông tin để chọn lựa, so sánh, phù hợp với qui luật của nhiều trường phái tâm lý học, trong thao tác kỹ thuật thực hành. Luận lý hình thức là kỷ niệm về chân lý của quá khứ. Trong lúc định tâm, ai cũng thấy quá khứ và tương lai trong hiện tại. Ở sơ thiền hữu sắc, chúng ta thấy mình là trung tính, không nam, không nữ. Rõ ràng là lý thuyêt lừng danh của Sigmund Freud về libido không có không gian để tồn tại. Những mặc cảm về tình dục, ẩn ức, giaỉ thoát ẩn ức… cũng chỉ là hoài niệm về thuộc tính của thân phận con người.
Nội dung của tai liệu này chỉ han chế trong khu vực trước nhập định và kỹ thuật nhập định. Như phần trên đã trình bày, ở hai khu vực này, đa ngành khoa học là những công cụ tuyệt vời, giúp cho chúng ta hiểu và thực hiện mục đích một cách hiệu quả, tỷ lệ thành công rất cao qua phán xét thực nghiệm. Thành quả này làm cho ta phát hiện ra những thiếu xót, sai lầm của lý thuyết cổ điển thiền định. Tìm hiểu về con người, dù đông hay tây, đã có cách đây khoảng 2500 năm.Triết học mô tả thời kỳ này là trăm hoa đua nở với các vị: SOCRATE, PLATON, SAKYA MUNI, LÃO TỬ, KHỔNG TỬ…
Tài liệu này tiện dụng và kinh tế ( convenience theory) ABHISHEKA, có nghĩa là rưới nước, đó là tên của lễ truyền thụ của mật tông Tây Tạng, ít nhiều tương tự với lễ rửa tội của Kyto giáo, nghi lễ này bắt nguồn từ nghi lễ đăng quang của thái tử Ấn Độ. Trên cơ sở này, phân chia thành hai nhóm công truyền và bí truyền, nhóm bí truyền phải tuyệt đối vâng phục một GURU,coi như một vị Phật sống.
Sự ra đời của tài liệu này là một nhu cầu, nó đã có từ thủa bộ môn thiền định này xuất hiện. Trừ ngài Sakya Muni thành công theo truyền thuyêt, chưa hẳn là một sự kiện lịch sử đáng tin cậy. Người ta tự hỏi: Thực sự có mấy ai đã tiếp cận với bộ môn này?. Bàn luận, tranh luận thì không đếm xuể. Thậm chí có trường phái của Trung quốc “ đốn ngộ” ( giác ngộ ngay tức thì ) thì , tiền niệm mê tức phàm, hậu niệm ngộ tức Phật”. Thực tế, không có vị nào người trung quốc được khách quan ghi nhận là Phật cả, trừ trường hợp tự phong.
Xem ra giữa lý thuyết và thực tế có một khoảng cách rất xa. Cây cầu chân lý hình như chưa bao giờ có. Thiền định thực tế , là sản phẩm của trí tưởng tượng cao độ, là một chủ thuyết không tưởng. Thật vậy, chẳng ai thấy bộ môn này mang lại điều gì thiết thực cho xã hội con người. Những hệ quả tích cực, được các cơ sở y tế của Mỹ ghi nhận, về sức khỏe con người, mức độ xác xuất rất cao không có gì nổi bật
Nếu thiền định là một bộ môn có thật, thì nó có những khó khăn gì chưa giải quyết được. Do đó, hầu hết moị người,thực tế, không tiếp cận được Chúng ta thử tìm hiểu sơ bộ lý thuyết cổ điển về những hướng dẫn, định đề, công thức để đưa đến nhập định, nếu phát hiện được những sai lầm và sửa sang được, thì thiền định trở thành một khả năng tinh thần, tâm lý, như bao nhiêu khả năng tiềm ẩn khác, thí dụ: làm toán, lái xe, chơi đàn...
Theo những tài liệu gọi là luận của trường phái thiền định nguyên thủy Sakya Muni, luồng tâm thức( có thể hiểu đơn giản là tổng hợp của các nguyên tố tâm lý) luôn vận động như một dòng nước, cụ thể tử tâm mất đi thì kiết sanh thức ( Patisandhi ) được mô tả như một gạch nối với dòng tâm thức của một đời sống mới. Chỉ với yếu tố Patisandhi, nếu cho chủ thuyết của Sakya Muni là một thuyết không có cái tôi ( vô ngã ) ở dạng này hoặc dạng khác, có lẽ là một nghịch lý khó hiểu. Cô đọng lại thì kỹ thuật thiền định, hay đúng hơn kỹ thuật nhập định là “ chú tâm vào một vật duy nhất “ để làm cho luồng tâm thức đứng lại. Nếu muốn biết rõ thêm chi tiết, quí đọc giả có thể truy cập ở những chương: Lộ trình của tâm ( CITTA VITTHI ), lộ trình qua ý môn_ lộ trình của người sắp chết ( trang 88,97, 135 của cuốn Thắng pháp tập yếu luận- tác giả Thích minh Châu ), còn nhiều tài liệu khác. Trong mệnh đề trên gồm có: một chủ đề ẩn thể, một động từ và một túc từ. _ Chúng ta thử tìm hiểu sơ qua một số phần. _Trong thế giới tự nhiên,, để tránh sự chú ý của những đối tượng thù nghịch, con người cũng như loài vật tìm cách đứng im, bất động, đó là một dạng ngụy trang phổ thông. Ngược lại, đó cũng là cách mà con người và thú vật dùng để tránh sự chú ý,để bất thình lình tấn công. Những thí dụ đời thường nêu trên, chưa nói tới đinh luật tâm lý cho chúng ta thấy, việc chú tâm vào một vật duy nhất, mà cả tài liệu luận coi là một tiên đề, cho thao tác kỹ thuật nhập định, là một viêc mâu thuẫn với cấu tạo tâm lý vốn có của con người.Thực tế, quí vị nào đã từng thực hành thiền định đều thấy rõ, nhưng không hiểu tại sao. Có thể vì hiện trạng này, mà bộ môn thiền định trở thành một bộ môn thiếu chuyên nghiệp, không an toàn, đầy may rủi, từng làm dang dở đời người “ đến nay tôi hiểu thì tôi đã…”
Để mịnh họa những bế tắc của lý thuyết thiền định cổ điển, chúng tôi xin mượn một đoạn văn của một tài liệu vật lý, mô tả về sự lúng túng của vât lý cổ điển khi giải thích về hiện tượng bức xạ nhiệt “ có một con mèo chạy loanh quanh hết góc này đến gọc kia,trong một căn nhà đang cháy, chỉ còn một một lối thoát duy nhất là cửa sổ hướng ra một con sông. Mèo thì vốn sợ nước, cũng có nhiều cơ hội theo học các lớp tập huấn về bơi lội cho riêng mèo, nhưng mèo đều từ chối…”
Với bộ môn cơ học thiền định sẽ được giới thiệu, những chuẩn mực ở thể giới của vật lý cổ điển vĩ mô không còn thích hợp. Việc này đối với EINSTEIN cũng khó chấp nhận, ông từng phát biếu: “ Tôi không thể tin rằng thượng đế chơi bài xúc xắc trong vũ trụ ( I can not believe that God plays dice with the universe ). Có thể chúng ta đều tự biết, các yếu tố tâm lý của chúng ta mang tính chất vốn có là bất định ( UNCERTAINTY ) xác xuất ( PROBABILITY ) không thể đoán trước ( UNCREDICTABLE ).Đời thường có câu “ Tri nhân tri diện bất tri tâm “; đối thoại trong một kịch bản, anh A nói :” Anh hãy nói về mình “, B trả lời rất tự nhiên : Tôi không biết rõ về tôi“; trong văn thơ “ Giận mình cởi áo trên cầu trao ai”. ( Còn tiếp )
2020 Người biên soạn : ( điện thoại : 0915527361 ) Ngày đăng 19/5/2020 |